Đề cương có đáp án môn Kinh tế chính trị Đại học Ngoại Thương FTU

Đề cương có đáp án môn Kinh tế chính trị Đại học Ngoại Thương FTU

Câu 1: Phân tích khái niệm vật chất theo quan niệm của Lênin và mối quan hệ biện chứng giữa VC và ý thức.



a. Khái niệm VC theo quan niệm của Lênin:

   Phạm trù vật chất là vô cùng trừu tượng, là nền tảng thống nhất và là bản nguyên của thế giới triết học chủ nghĩa duy vật. Bàn về vật chất thì có nhiều quan điểm khác nhau :

      Các  nhà  triết  học  duy  tâm  tìm  nguồn  gốc,  bản  chất  của  thế  giới  ở  "ý  niệm tuyệt  đối"  hoặc  ở  ý  thức  con  người;  ngược  lại  thì  các  nhà  duy  vật  trước  Mác  có khuynh hướng chung là tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ngay trong bản thân nó. Nhưng do ảnh hưởng của  quan điểm siêu  hình  -  máy  móc  nên  họ  cho rằng  mọi  hiện tượng của thế giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau, thống nhất với nhau, cùng bị chi phối bởi một số quy luật nhất định. Quan điểm ấy không phản ánh được tính nhiều vẻ, tính vô tận của thế giới hiện thực.

       Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Lênin đã định nghĩa: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".

      Theo quan niệm duy vật biện chứng: “VC tồn tại cụ thể, con người dựa vào cảm giác có khả năng nhận thức được nó. Cảm giác là cơ sở đầu tiên của quá trình nhận thức, cơ sở thứ hai là ý thức của con người; khác với chủ nghĩa duy tâm chủ quan, cho rằng cảm giác là cơ sở duy nhất của quá trình nhận thức”.

    định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:

     Thứ nhất là phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng các dạng vật  chất  khác  nhau.  Vật  chất  với  tư  cách  là  phạm  trù  triết  học  dùng  chỉ  vật  chất  nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.

     Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo V.I.Lênin là "cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người". Trong đời sống xã hội, vật chất "theo ý nghĩa là tồn tại xã hội,  không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn là "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh".

   Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

     Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.

     Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người.

     Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

    Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn.

     Đưa ra tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất cái gì không phải là vật chất, khẳng định “thực tại khách quan” (vật chất ) là cái có trước (tính thứ nhất ), còn “cảm giác ý thức” là cái có sau ( tính thứ hai); vật chất tồn tại không phụ thuộc vào ý thức. 

    Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục được những hạn chế   trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất. 

     Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa định hướng và mở đường cho các khoa học khác phát triển, đặc biệt là khoa học tự nhiên, đấu tranh khắc phục triệt để  tính chất trực quan, siêu hình , máy móc và những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa này cũng giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa siêu hình 

     Cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vât chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại

     Định  nghĩa  vật  chất  của V.I.Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.


b. Mối quan hệ giữa VC và ý thức:

   Vai trò của VC đối với ý thức:

    VC là cái có trước, ý thức là cái có sau, vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người nên khi có con ngưới mới có ý thức,mà con người là sản phẩm của thế giới VC.

    VC là nguồn gốc của ý thức, vì các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, XH của ý thức là bản thân thế giới VC, hoặc là những dạng tồn tại của VC.

     Nội dung của ý thức được quyết định bởi VC, vì ý thức là cái phản ánh thế giới VC, là hình ảnh về thế giới VC.

    VC quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức, vì những yếu tố VC ( qui luật sinh học, qui luật XH, sự tác động của môi trường sống) quyết định sự vận động, phát triển và hình thưc biểu hiện của ý thức.    

   Vai trò của ý thức đối với VC:

     Ý thức có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người: ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, nhằm thực hiện mục tiêu của mình.

     Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 2 hướng:

          Tích cực: khi con người nhận thức đúng, hành động phù hợp với qui luật khách quan, cải tạo được thế giới.

          Tiêu cực: khi ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, hành động đi ngược lại qui luật khách quan.

   Ý thức có thể quyết định hành động của con người.

   Ý nghĩa phương pháp luận:

    Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất: trong mọi hoạt động nhận thưc và thực tiễn, phải:

     Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan.

      Trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố VC, tổ chức chúng thành lực lượng VC để hành động.

         Phát huy tính năng động chủ quan: phát huy vai trò tích cực, ănng động, sáng tạo của ý thức và vai trò nhân tố con người.

           Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động; tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan CM, tình cảm, nghị lực CM để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.

     Để thực hiện nguyên tắc trên, phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.


Câu 2:  Phân tích nội dung 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật



      a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: 

          Khái niệm:

               Mối liên hệ là khái niệm dung để chỉ sự qui định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay các mặt, các biến cố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

  Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (giới tự nhiên, XH và tư duy).

          Tính chất: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng là các tính chất cơ bản của các mối liên hệ

               Tính khách quan:  Sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau trong tổ chức, kết cấu của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Do tính chất của sự qui định đó mà ta phân biệt được trạng thái khác nhau của VC: tồn tại khách quan là tồn tại VC, khác với chủ quan thể hiện ở ý thức, tinh thần.

               Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Vậy tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại và đặt trong mối liện hệ.

               Tính đa dạng, phong phú:

                  Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có nhiều tổ chức, cấu trúc khác nhau nên có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. 

     Tùy thuộc vào mối liên hệ mà qui định cho tính chất của sự vật, hiện tượng. Một sự vật có rất nhiều tính chất, thuộc tính cơ bản và không cơ bản. thuộc tính cơ bản là thuộc tính vốn có qui định cho bản chất của sự vật, mất thuộc tính này sự vật không còn là nó nữa  thuộc tính cơ bản qui định cho sự tồn tại và biến đổi sự vật. Biến đổi sự vật qui định ở những mặt đối lập trong bản thân sự vật.

     Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu, liên hệ trực tiếp và gián tiếp, liên hệ cơ bản và không cơ bản….Trong đó, liên hệ bên trong, bản chất, chủ yếu, trực tiếp, cơ bản mang tính chất quyết định.

          Ý nghĩa:

 Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.

     Quan điểm toàn diện  đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.

 Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

      Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.

  

    b. Nguyên lý về sự phát triển:

           Khái niệm:

 Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.

 Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo khuynh hướng đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình vận động nhưng không đồng nhất với vận động vì phát triển chỉ có 1 xu hướng, vận động bao gồm nhiều xu hướng ( đi lên, đi xuống, đứng lên). Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.

           Tính chất: Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

 Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình tự vận động, tự biến đổi, tự giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.

              Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan.

              Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác.

          Ý nghĩa:    

 Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển: không chỉ nhận thức sự vật ở hiện tại mà phải dự đoán ở tương lai, thấy được xu thế tương lai, tạo điều kiện cho cái mới, tiến bộ ra đời, xoa bỏ những cái cũ lạc hậu. Trong quá trình phát triển cũng có những bước lùi tạm thời, nhưng sự thục lùi đó tạo điều kiện cho sự tiến lên nhiều hơn  tránh tình trạng dao động, hoang mang, lùi cũng được coi là 1 chiến lược.

 Theo đó để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt cần đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó, mặt khác cần có quan điểm lịch sử, cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.


Câu 3: Trình bày các qui luật của phép biện chứng duy vật



  Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lí và quy luật khoa học nhằm xây dựng phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Trong đó, phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩ Mác Lênin được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học, với sự thống nhất giữa nội dung của thế giới quan (Duy vật biện chứng) và phương pháp luận (Biện chứng duy vật)

  Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm có 2 nguyên lí, 3 quy luật cơ bản và 6 quy luật không cơ bản (hay còn gọi là 6 cặp phạm trù).

  Qui luật là những mối lien hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

  Căn cứ vào mức độ của tính phổ biến, các qui luật được chia thành: những qui luật riêng, những qui luật chung và những qui luật phổ biến.

  Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các qui luật được chia thành: những qui luật tự nhiên, những qui luật XH và những qui luật của tư duy.

  Qui luật được vận dụng vào những khoa học cụ thể thì mang tính tự phát, đặc thù, gọi là định luật  qui luật trong tự nhiên.

  Sự vận động của XH loài người cũng có qui luật nhưng mang tính khách quan  qui luật XH.

  Sự nhận thức của con người cũng mang tính qui luật  qui luật của tư duy  logic học.

  Qui luật và bản chất đồng nhất với nhau.

  Qui luật mang tính khái quát, không phụ thuộc ý thức con người. Con người chỉ nhận thức được qui luật chứ không thể thay đổi qui luật. Qui luật là cái có sẵn.

  Để qui luật được vận hành thì qui luật phải gắn với điều kiện, nếu điều kiện thay đổi thì kết quả thay đổi. Khi xét 1 sự vật, hiện tượng phải xét trong điều kiện cụ thể.

  3 qui luật sau là các qui luật cơ bản của phép BCDV:


. Qui luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại ( qui luật lượng chất) :

   Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là qui luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, XH và tư duy.

    Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật chỉ biến đổi về lượng chứ không biến đổi về chất.

   Quan điểm duy vật cho rằng sự vật biến đổi về cả lượng và chất.

 a. Khái niệm chất, lượng :

   Chất dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng ; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác. Con người chỉ có khả năng nhận thức chứ không thay đổi được chất.

   Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi.

    Chất còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua những mối liên hệ cụ thể.

    Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.

   Lượng dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, qui mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

   Vậy chất và lượng là 2 phương diện khác nhau của cùng 1 sự vật, hiện tượng, hay 1 quá trình nào đó trong tự nhiên, XH và tư duy. Lượng là lượng của chất, chất được thể hiện thông qua lượng. Lượng và chất tồn tại khách quan.

 b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng :

   Trong 1 sự vật bao giờ cũng có sự gắn bó chặt chẽ giữa lượng và chất. Trong quá trình vận động, lượng biến đổi liên tục, ít nhiều ảnh hưởng đến chất.

   Độ : là giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi. Sự vật hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.

   Điểm nút : là điểm đánh dấu khi lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhât định sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất.

    Bước nhảy : dùng để chỉ sự thay đổi của chất : sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới.

    Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau : lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, dần dần và đột biến,...

  Về qui mô :

    Bước nhảy cục bộ : là thay đổi từng mặt, từng phần và dẫn đến thay đổi toàn bộ  bước nhảy toàn bộ.

    Bước nhảy toàn bộ : là thay đổi toàn diện.

  Về nhịp điệu :

    Bước nhảy dần dần : là bước nhảy diễn ra từ từ, dẫn đến sự biến hóa XH  bước nhảy đột biến.

    Bước nhảy đột biến : diễn ra nhanh chóng

  Khi chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới làm thay đổi kết cấu, qui mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.

c. Ý nghĩa phương pháp luận :

  Phải coi trọng cả chất và lượng của sự vật, tạo nên nhận thức toàn diện về sự vật. Không được tuyệt đối hóa vai trò của lượng hoặc chất. Chỉ biến đổi về lượng thì là bảo thủ, chỉ biến đổi về chất thì là chủ quan duy ý chí.

  Tùy mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật ; đồng thời có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.

  Trong công tác thực tiễn, cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh ( bất chấp qui luật, chủ quan, duy ý chí) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh ( bảo thủ, trì trệ).

  Trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Cần nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất 1 cách hiệu quả nhất.                                                                                                                                          


. Qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ( qui luật mâu thuẫn) :

  Là qui luật ở thế hạn nhân của phép BCDV, là qui luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển xuất phát từ các mâu thuẫn khách quan , vốn có của nó.

a. Khái niệm mâu thuẫn 

  Quan niệm biện chứng : Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

   Quan niệm siêu hình : mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.

  Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập : những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.

b. Các tính chất chung của mâu thuẫn :

  Tính khách quan và tính phổ biến.

  Tính đa dạng, phong phú :

     Tính đa dạng: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau trong những điều kiện LS, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.

     Tính phong phú: trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau.

c. Quá trình vận động của mâu thuẫn:

   Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau:

     Thống nhất: chỉ sự ràng buộc, liên hệ, không tách rời nhau, qui định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Thống nhất bao hàm sự đồng nhất.

     Đấu tranh: chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bại trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập, mang tính phong phú, đa dạng.

   Sự đấu tranh là tuyệt đối, sự thống nhất là tương đối, có điều kiện, tạm thời. Trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất.

   Quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành 2 mặt đối lập. Khi 2 mặt đối lập xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện chin mùi sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành, quá trình tác động, chuyển hóa giữa 2 mặt đối lập lại tiếp diễn, làm sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển

d. Ý nghĩa phương pháp luận:

  Tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.

  Phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp.

  Phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định.

   Đấu tranh xóa bỏ cái cũ, tạo điều kiện cho cái mới ra đời.


. Qui luật phủ định của phủ định:

  Là qui luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, XH và tư duy. Đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định biện chứng mang tính chu kì “phủ định của phủ định”.

a. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng:

   Phủ định: là sự xóa bỏ sự vật này để thay vào đó 1 sự vật khác, mang tính phổ biến.

   Nguyên nhân của sự phủ định: 

    Do tác động của ngoại lực làm sự vật biến đổi.

    Do tác động nội lực.

  Kết quả của sự phủ định:

    Làm cho sự vật chấm dứt phát triển.

    Tạo điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Đó gọi là phủ định biện chứng.

  Tính chất của phủ định BC:

   Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật; tạo khả năng ra đời của cái mới, thay thế cái cũ, tạo xu hướng phát triển của bản thân sự vật..

   Tính kế thừa: kế thừa nhân tố hợp qui luật và loại bỏ nhân tố phản qui luật.

   Vậy PĐBC là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

b. Phủ định của phủ định:

   Để hoàn tất chu kì của sự phát triển thì sự vật ít nhất phải trải qua 2 lần phủ định.

 Phủ định chia làm 2 giai đoạn:

    Phủ định cái khẳng định: 2 mặt đối lập có sự chuyển hóa cho nhau  phủ định mang tính trung gian, tạo điều kiện cho sự vật tiếp tục phát triển.

    Phủ định cái phủ định: sự phủ định là sự tổng hợp của mọi PĐBC  sự vật mới xuất hiện, về mặt hình thức giống cái ban đầu, về mặt nội dung tiến bộ hơn cái ban đầu. Sự ra đời cái mới dường như có lặp lại cái cũ nhưng trên 1 cơ sở cao hơn, có sự tiến lên.

Qui luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển theo hình thức con đường “xoáy ốc”, thể hiện tính biện chứng của sự phát triển: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên.

 Tóm lại, nội dung cơ bản của qui luật phủ định của phủ định phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. PĐBC là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kì của sự phát triển.

c. Ý nghĩa phương pháp luận:

 Qui luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức 1 cách đúng đắn về cơ sở vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

 Cần nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp yêu cầu hoạt động nhận thức biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của  chúng ta ( khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên) và thực tiễn.

 Nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong moi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi  Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kiềm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với qui luật phủ định của phủ định.

  Phải có quan niệm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển  khắc phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh  chỉ kế thừa những yếu tố hợp lí của cái cũ cho sự phát triển của cái mới.


Câu 4: Lí luận nhận thức và thực tiễn



   a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

        Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính LS-XH của con người nhằm cải biến tự nhiên và XH.

        Trong đó:

          HĐVC là HĐ con người tham gia vào, tác động vào thế giới nói chung với mục                                                                                                                                                                                                                  đích duy trì sự tồn tại và phát triển của con người trong XH, sản xuất ra XH.

  • Thực tiễn là phương thức cơ bản của HĐ, HĐ là thông điệp giữa con người và con vật.  

            HĐ mang tính LS-XH vì gắn liền với môi trường quan hệ XH, vì HĐ có sự vận động, phát triển. HĐ thực tiễn qui định cho tính chất khác nhau của các thời đại LS.

         3 hình thức cơ bản của thực tiễn:

      HĐSXVC: là hình thức HĐ cơ bản, đầu tiên của thực tiễn,chi phối những HĐ thực tiễn khác, là HĐ con người sử dụng những công cụ LĐ tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải VC nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.

     HĐ chính trị XH: là HĐ của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong XH nhằm cải biến những quan hệ chính trị XH để thúc đẩy XH phát triển.

      HĐ thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của HĐ thực tiễn, ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển XH, đặc biệt trong thời kì CM khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là HĐ được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và XH nhằm xác định những qui luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu, giúp con người rút ngắn quá trình nhận thức, nâng cao hiệu quả của LĐSX và cải tạo phục vụ XH. 

           HĐ chính trị XH và HĐ thực nghiệm khoa học 1 mặt phục vụ cho HĐSXVC, mặt khác kiềm hãm hoặc thúc đẩy HĐSXVC. Sự tác động qua lại này làm cho HĐ thực tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng đối với HĐ nhận thức.


 b. Nhận thức và các trình độ nhận thức

        Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn , nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.

        Chủ thể và khách thể là các yếu tố cơ bản của nhận thức. Khách thể nhận thức quyết định chủ thể nhận thức.

        Các trình độ nhận thức:

           Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận:

                Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ  sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, XH hay trong các thí nghiệm khoa học.Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.

                Nhận thức lí luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng.

                Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận: 
                         Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lí luận.

     Nhận thức lí luận không hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lí luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lí để phục vụ cho hoạt động thực tiễn.

            Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:

                 Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hằng ngày của con người, phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Nó mang tính phong phú và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hằng ngày nên có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong XH.
                  Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành 1 cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu diễn ra dưới dạng trừu tượng, logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật khoa học. Nó vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.
                   Mối quan hệ giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học:
                          Nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học.
                          Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.

             Tóm lại, nhận thức phải là 1 quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lí luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.

                 Đi từ cảm tính đến lí tính.


c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

     Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.

     Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của quá trình nhận thức.

     Nhận thức giúp con người nâng cao giá trị sống, để nâng cao giá trị sống thì phải kinh qua thực tiễn.

     Tuy nhiên, nhận thức cũng có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ với thực tiễn:

         Nhận thức giúp con người nắm bắt những thuộc tính, qui luật, bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó đề ra những phương án để giải quyết nó.

         Nhận thức phản ánh đúng hiện thưc khách quan, tác động vào hiện thực, cải tạo hiện thực, nếu phản ánh sai hiện thực khách quan thì sẽ ngăn cản quá trình cải tạo hiện thực.


d. Ý nghĩa phương pháp luận:

     Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Mọi nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lí luận phải liện hệ thực tiễn (vì thế học phải đi đôi với hành). Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn hay vai trò của nhận thức. Phát huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ hiện nay. Thực tiễn mà không có lí luận khoa học sẽ là thực tiễn mù quáng. Trong hoạt động Đảng, xa rời thực tiễn sẽ mắc bệnh giáo điều, máy móc, quan liêu. Tóm lại nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lí luận là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lí luận.

     Do vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và tác động trở lại của nhận thức đối với thực tiễn, triết học Mác Lênin đề ra nguyên tắc thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn, trong đó thực tiễn có ý nghĩa quyết định.

  • Tuy nhiên, có lúc thực tiễn mâu thuẫn với nhận thức. Khi nhận thức không phù hợp với thực tiễn, ta phải thay đổi nhận thức. Ta phải xuất phát từ hiện thực vì thực tiễn cao hơn nhận thức và lí luận, nhưng không hạ thấp vai trò nhận thức mà phải tạo điều kiện thúc đẩy nhận thức làm nhận thức phù hợp xu thế hoạt động của thực tiễn.



Câu 5: HĐSXVC là nền tảng của sự tồn tại và phát triển XH



 a. SXVC và phương thức SX (PTSX)

    SX là 1 loại hình HĐ đặc trưng của con người và XH loài người, bao gồm: SXVC, SX tinh thần và SX ra bản thân con người., trong đó SXVC là yếu tố quyết định.

    SXVC  cũng chính là 1 loại hình HĐ thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và XH.

    Vậy SXVC mang tính khách quan, tính XH, tính LS và tính sáng tạo:

        KQ vì HĐ này không phải do ý muốn chủ quan của con người mà do yêu cầu của HĐSXXH.

        LS-XH vì khi XH thay đổi thì HĐ này thay đổi theo.

        Sáng tạo vì HĐ này có sự tham gia của con người, SX ra con người.

    Bất kì 1 quá trình SX nào cũng được cấu tạo từ 3 yếu tố cơ bản:

        Sức LĐ của người LĐ: là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có khả năng được vận dụng, sử dụng trong quá trình SXVC. Đây là nhân tố quyết định.

        Đối tượng LĐ: là những khách thể được con người tác động vào trong quá trình LĐ, làm biến đổi chúng nhằm phục vụ cho nhu cầu sống của con người.

        Tư liệu LĐ: là nhũng phương tiện VC mà con người sử dụng trong quá trình LĐ để tác động vào đối tượng LĐ.

 Khái niệm PTSX dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình SX của XH ở những giai đoạn LS nhất định.

 Mỗi PTSX có 2 phương diện cơ bản là kĩ thuật và kinh tế:

     Phương diện kĩ thuật: là sự thể hiện năng lực, trình độ, cách thức, kĩ thuật hoặc HĐ công nghệ nhằm biến đổi các đối tượng của quá trình SX.

     Phương diện kinh tế: là sự thể hiện cách thức tổ chức kinh tế của HĐSX. Vào mỗi thời đại LS có 1 cách tổ chức kinh tế khác nhau.


b. Vai trò của SXVC và PTSX đối với sự tồn tại, phát triển của XH:

  Theo quan điểm duy vật LS, SXVC giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và XH, là cơ sở làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ XH của con người, là cơ sở nền tảng của sự hình thành, biến đổi và phát triển của XH loài người.

  Để tiến hành quá trình SXVC, con người phải thiết lập nên những mối quan hệ nhất định:

     Giữa con người với tự nhiên: thể hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con người, là quan hệ kĩ thuật của nền KTXH.

     Giữa con người với con người: thuần túy đứng trên góc độ kinh tế, lợi ích của những phần tử tham gia quá trình LĐ là chất xúc tác tạo quan hệ bền vững, cũng là chất xúc tác phá hủy mối quan hệ này.

  Sự kết hợp 2 quan hệ trên hình thành PTSX. Các Mac gọi mối QH giữa con người và tự nhiên là LLSX, mối QH giữa con người với con người là QHSX.

  Mỗi PTSX hình thành những QHSX nhất định, dẫn đến hình thành các QHSX khác.

  Do QHSX là cơ sở của QHXH nên khi QHSX thay đổi sẽ làm thay đổi hàng loạt các QHXH khác.

  Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống XH, suy đến cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nền SX của XH.

  QHSX thể hiện trình độ quan hệ người trong quá trình SXVC và gián tiếp nói lên trình độ tiến bộ của XH loài người.

  Trên cơ sở phân tích vai trò của nền SXXH, triết học Mác Lênin đã lí giải sự vận động của LS. Sự thay thế và phát triển của các PTSX qua các thời đại là phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển XH loài người từ trình độ thấp đến cao.


Câu 6: Phân tích quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất



a.Khái niệm LLSX và QHSX:

    Lực lượng sản xuất là khái niệm biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.

    LLSX bao gồm:

        Người lao động với trình độ- năng lực, tri thức khoa học, sức khỏe và thói quen lao động, trong đó tri thức khoa học là lực lượng then chốt, nhân tố trực tiếp của LLSX làm thay đổi đời sống.

        Tư liệu sản xuất, bao gồm:

     Tư liệu LĐ:

        Công cụ LĐ: yếu tố quyết định làm tăng năng suất LĐ, cùng với người LĐ quyết định cho sự phát triển của LLSX, không thể thiếu trong quá trình LĐ.

        Phương tiện LĐ: vật hay phức hợp vật có thể tạo ra khó khăn hay thuận lợi cho quá trình LĐ.

     Đối tượng LĐ:

          Đối tượng LĐ có sẵn như ao, hồ,…  hữu hạn.

          Đối tượng LĐ do con người tạo ra, được lấy từ tự nhiên và qua chế biến như vải, xăng dầu,…  vô hạn vì phụ thuộc năng lực, trình độ con người.

         Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất. Trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, trình độ LLSX thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

        Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), là 1 trong những biểu hiện của QHXH, giữ vai trò xuyên suốt trong QHXH vì QHSX là quan hệ đầu tiên, quyết định những quan hệ khác.

        Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: 

  Quan hệ sở hữu đối với TLSX : quyết định các quan hệ khác, là quan hệ xác định vai trò, vị trí của con người trong sản xuất, xác định chủ sở hữu ( quyền sử dụng và quyền định đoạt, trong đó quyền định đoạt đóng vai trò quyết định), bao gồm QHSH về tư nhân và QHSH về tập thể, XH.

  Quan hệ tổ chức lao động sản xuất 

 Quan hệ phân phối sản phẩm LĐ

    QH tổ chức lao động sản xuất và QH phân phối sản phẩm LĐ 1 mặt chịu sự chi phối của QH sở hữu về TLSX, mặt khác tác động trở lại QHSH. Sự tác động qua lại này thúc đẩy sự phát triển của nền SXXH.


b. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:

        Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất biện chứng với nhau trong một phương thức sản xuất nhất định. Trong đó, lực lượng sản xuất là mặt nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển (do trình độ của LLSX là yếu tố năng động, không ngừng biến đổi và phát triển); quan hệ sản xuất là mặt hình thức, tương đối ổn định. Sự tác động qua lại giữa hai mặt đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

.    Sự vận động, phát triển của LLSX đóng vai trò quyết định đối với QHSX, làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là trạng thái mà trong đó, QHSX là hình thức phát triển của LLSX, các mặt của QHSX đều tạo điều kiện cho LLSX phát triển.

        Mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX tuân theo qui tắc khách quan: QHSX phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của LLSX hiện thực trong mỗi giai đoạn LS nhất định.

           Khi LLSX phát triển ở một trình độ nhất định, QHSX cũ không còn phù hợp với nó nữa  thì yêu cầu khách quan sẽ thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới, PTSX mới theo đó cũng hình thành và phát triển.

           Như vậy, về bản chất, sự phù hợp giữa QHSX và trình độ phát triển của LLSX tuân theo quy luật chuyển hóa từ sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng- chất). Về nguyên nhân, sự phù hợp giữa QHSX và trình độ phát triển của LLSX mô phỏng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Về khuynh hướng, sự phù hợp giữa QHSX và trình độ phát triển của LLSX hoàn toàn đúng với nội dung của quy luật phủ định của phủ định.

        Tuy nhiên, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự kìm hãm này làm cho quan hệ sản xuất cũ được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải đơn giản mà đòi hỏi phải thông qua nhận thức hoạt động cải tạo xã hội của con người, thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

           Quy luật sản xuất phù hơp với trình độ sản xuất là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, TBCN và xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ sản xuất là cơ bản nhất

c. Ý nghĩa phương pháp luận:

           Cần quan tâm xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên tiến. Không tuyệt đối hóa vai trò của LLSX hoặc QHSX.

           Phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế phù hợp với 1 LLSX nhất định  phù hợp trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa XH.

           Con người và công cụ LĐ là yếu tố quan trọng của LLSX, quyết định trình độ SX  phải nâng cao trình độ chuyên môn và tư duy khoa học, tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa để phát triển nền SXXH.






Câu 7: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng



a. Khái niệm CSHT, KTTT:

    Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định, gồm 2 kiểu:

        QHSX cơ bản: giữ địa vị thống trị nền SXXH, chi phối toàn bộ những QHSX khác.

        QHSX không cơ bản:

 QHSX đóng vai trò tàn dư: đã từng giữ địa vị thống trị, nhưng trong hiện tại trở thành bị thống trị.

 QHSX đóng vai trò mầm mống: xuất hiện trong lòng KTXH nhất định, trong hiện tại bị thống trị nhưng trong tương lai sẽ phủ định QHSX thống trị để trở thành thống trị.

    Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

 KTTT là sự phản ánh của CSHT.

    Đặc biệt đối với XH có giai cấp, thiết chế cơ bản, đại diện cho XH là tổ chức nhà nước. Đó sự tập trung, phản ánh quyền lợi, thống trị kinh tế của 1 giai cấp nhất định. Nó tác động vào CSHT và những hình thái khác của KTTT.

 Vấn đề nhà nước là vấn đề hàng đầu của CMXH.


b. QH biện chứng giữa CSHT và KTTT:

    Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.

    Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện trên nhiều phương diện:

  Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, nó có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.

  Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng

 Cơ sở hạ tầng bao giờ cũng có trước và quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng.

           Chứng minh: 

              Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống kiến trúc thượng tầng

        Sự đấu tranh trong lĩnh vực kiến thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội (KTTT) có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội (CSHT)

 Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong kiến trúc thượng tầng còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào giai cấp phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước

 Các chính sách và pháp luật của nhà nước, suy đến cùng chỉ là phản ánh nhu cầu thống trị về kinh tế cuả giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội,... 

           Giải thích:

              Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân từ tính tất yếu của kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực của xã hội dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính trị, pháp luật... hay lĩnh vực sinh hoạt của xã hội. 

             Tính tất yếu của kinh tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuất khách quan của xã hội. Thực chất đó là mối quan hệ phụ thuộc của các hình thái ý thức xã hội vào tồn tại vật chất của xã hội.



Kinh tế CSHT


----------------------------------------------------------------------------------------------------------------

           KTTT               Nhà nước   Hệ tư tưởng



     Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:

         Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phất triển của kinh tế , các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.

         Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức, hình thức, điều này phụ thuộc vào bản chất cuả mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. 

         Tuy nhiên trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức và hình thức thì tác động của các yếu tố khác đến cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua nhân tố nhà nước và pháp luật mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.

         Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu hướng và mục tiêu, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế độ xã hội hiện thời, lại có sự tác động theo xu hướng xoá bỏ cơ sở kinh tế này và có xu hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác...  khi mâu thuẫn giữa CSHT và KTTT đạt đến mức độ gay gắt nhất và trong XH xuất hiện những điều kiện chín mùi ( có lưc lượng đứng ra lãnh đạo CM) thì CM nổ ra.

         Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế; nếu phù hợp nó sẽ tác dụng tích cực, ngược lại sẽ tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển của kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định, Tuy nhiên, sực tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng  dù diễn ra với những xu hướng khác nhau nhưng rốt cuộc nó vẫn không thể giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội; cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.


c.  Ý nghĩa phương pháp luận: 

      KTTT phát triển là nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Muốn có một KTTT phát triển thì phải có một CSHT vững mạnh. Phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự tiến bộ của phương thức sản xuất chính là con đường căn bản cho sự phát triển của CSHT.

     Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng mối liên hệ này trong việc đề ra định hướng phát triển cho đất nước. Đó là phải xây dựng một nền kinh tế bền vững, tạo ổn định về mặt chính trị và xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.







Câu 8: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội



a. Khái niệm TTXH và YTXH:

    Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương tiện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm 3 yếu tố cơ bản tạo thành:

         Phương thức sản xuất vật chất 

         Các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên-hoàn cảnh địa lý

         Dân cư. 

    Các yếu tố này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng , tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội . Trong đó, phương thức SXVC là yếu tố quan trọng nhất.

    Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của XH nảy sinh từ TTXH và phản ánh TTXH trong những giai đoạn phát triển nhất định.

    YTXH được thể hiện thông qua cá nhân, được cụ thể hóa trong từng cá nhân.Ý thức cá nhân là nền tảng để thể hiện YTXH, nhưng ý thức cá nhân không phải là YTXH mà chỉ là bộ phận của YTXH.

    YTXH bao gồm:

         Ý thức đời thường: mang tính trực tiếp, tự phát, hiện tượng,phong phú, dễ nhận thức vì là sự phản ánh trực tiếp trong cuộc sống đời thường.

         Ý thức lí luận: mang tính gián tiếp, tự giác, bản chất, ổn định, nhận thức thông qua học tập.

    Khi ý thức đời thường và ý thức lí luận thâm nhập vào đời sống XH thì trở nên bền vững.

    YTXH phản ánh ý thức của các tầng lớp trong XH nên tính giai cấp là quan trọng, ngoài ra YTXH còn mang tính dân tộc. Đôi khi tính DT vượt tính GC, xóa bỏ mâu thuẫn trong GC. Khi lợi ích của các GC đạt được thống nhất thì các GC chung YTXH.


b. Mối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH:

    Giữa TTXH và YTXH có mối quan hệ biện chứng với nhau . Tồn tại xã hội quyết định YTXH nhưng YTXH cũng có tính độc lập tương đối và tác động lại TTXH . Trứơc hết ta xét tính quyết định của TTXH đối với YTXH lên hai phương diện cơ bản :

         YTXH là sự phản ánh đối với hiện thực khách quan nên TTXH như thế nào thì YTXH như thế ấy. 

               VD: C.Mac và Ph.Ănghen đã chứng minh rằng , đời sống tinh thần của XH hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất , không thể tìm được nguồn gốc của tư tưởng , tâm lý XH trong đầu óc con người , mà phải tìm trên hiện thực vật chất . Chẳng hạn , trong XH công xã nguyên thuỷ do trình độ  của lực lượng sản xuất còn thấp kém , mọi người còn làm chung , hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện .Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã , quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời , xã hội phân chia giàu nghèo , bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản , nảy sinh và phát triển hệ tư tưởng tư hữu , ăn bám , bóc lột, chủ nghĩa cá nhân , tư tưởng chủ nô ra đời.

         Sự biến đổi của YTXH có nguyên nhân căn bản từ sự biến đổi và phát triển của phương thức sinh tồn , phát triển của TTXH. Trong đó quan trọng nhất là sự phát triển và biến đổi của phương thức sản xuất- đó là phương thức sinh tồn cơ bản nhất của con người, của một xã hội nhất định.

     Khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH , chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức XH như một yếu tố thụ động , trái lại còn nhấn mạnh , tác động tích cực của YTXH đối với đời sống KT-XH, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của YTXH trong mối quan hệ với TTXH được biểu hiện ở những điểm sau:

         YTXH thường lạc hậu so với TTXH: nguyên nhân của đặc điểm này là do YTXH bao giờ cũng đi sau TTXH, YTXH một khi đã trở thành những tập quán, tập tục, tâm lí… thì rất khó xóa bỏ. Mặt khác, YTXH càng khó xóa bỏ hơn khi nó gắn liền với những giai cấp, tầng lớp lạc hậu không muốn xóa bỏ nó.

         YTXH có thể vượt trước TTXH :  Đó là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể  vượt trước sự phát triển của TTXH , dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, những tư tưởng tiến tiến này không thoát ly TTXH mà gắn chặt với TTXH.

         YTXH có sự kế thừa trong phát triển : Kế thừa ở đây là sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của cha ông , tiếp thu những yếu tố đặc trưng phù hợp với thực tiễn và loại bỏ những cái cũ không còn phù hợp nữa . Sự kế thừa thực hiện tính tự giác thông qua lợi ích của các lực lượng giai cấp phản ánh nó . 

VD: Chẳng hạn như để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày nay C.Mac, Ănghen đã kế thừa phép biện chứng của Heghen và chủ nghĩa duy vật của Feurback nhưng cũng đồng thời loại bỏ những tư tưởng không phù hợp .

         Sự tác động lẫn nhau của các hình thức YTXH: Trong giai đoạn lịch sử nhất định, một hình thái YTXH ưu trội vượt lên trên, tác động , chi phối vào các hình thái YTXH khác. 

VD: Vào thời kỳ cổ đại ở phương Tây xuất hiện tư tưởng triết học . Trong thời điểm này , triết học là hình thức ưu trội , nó thấm sâu, vận hành các hình thức YTXH khác… Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần XH . 

         Sự tác động trở lại của YTXH với TTXH: Sự tác động của YTXH với TTXH biểu diễn qua hai chiều hướng. Nếu YTXH tiến bộ thì thúc đẩy TTXH phát triển, nếu YTXH lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của TTXH.


c. Ý nghĩa phương pháp luận: 

    Để xây dựng đất nước phát triển , ta phải kiện toàn phương thức sản xuất, phát triển văn hoá (góp phần nâng cao TTXH). Khi đó sẽ làm YTXH phát triển, và đương nhiên đưa XH phát triển. 

    Ta phải xoá bỏ mọi tàn dư , lạc hậu của xã hội, kế thừa những giá trị tích cực làm nên nền móng cho sự phát triển xã hội . Ta tiếp thu văn minh thế giới dựa trên nền tảng văn hoá dân tộc.







Câu 9: Phân tích vai trò của quân chúng nhân dân trong lịch sử.



a. Khái niệm quần chúng nhân dân trong lịch sử:

   Quần chúng nhân dân là khái niệm dùng để chỉ những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.

   Như vậy, quần chúng nhân dân là một phạm trù mang tính lịch sử- xã hội. Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm:

     Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và giá trị tinh thần; đó là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.

    Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.

    Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

   Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, nó thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực lượng cơ bản của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ngoài ra, tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà bao gồm trong cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác.


b. Vai trò của quần chúng nhân dân đối với tiến trình lịch sử:

   Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.

   Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Vai trò này được biểu hiện ở ba nội dung:

      Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đảm bảo nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội – đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc, vai trò của khoa học kỹ thuật chỉ có thể phát huy thông  qua thục tiễn của quần chúng nhân dân lao động.

      Quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng taọ ra các giá trị văn hóa tinh thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp kiểm chứngcác giá trị tinh thần đã được các thế hệ và cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.

      Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc cách mạng và cải cách xã hội nào có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Cách mạng là “ngày hội của quần chúng” và trong nhũng ngày tháng đó quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử “một ngày bằng hai mươi năm”. Suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao dộng là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

   Lịch sử Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng với tư tưởng thường trực “lấy dân làm gốc”.

   Vai trò sáng tạo của lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều kiện khách quan và chủ quan: trình độ phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội, trình độ tổ chức xã hội, bản chất của chế độ xã hội,…


c. Ý nghĩa phương pháp luận:

   Việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã thống trị lâu dài trong lịch sử. đồng thời đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như nhận định và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.

   Cung cấp phương pháp luận khoa học để các Đảng Cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.    

Xem thêm trọn bộ đề cương có đáp án ôn thi cuối kỳ FTU

Comments